Tổ chức 26/3/2011 tại ĐH Xây dựng
Toàn văn bài tham luận của Tôi  tại Hội nghị này













Kính thưa đ/c ….
Kính thưa quý vị đại biểu cùng các vị khách quý….
Nhân kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, lời đầu tiên tôi kính chúc quý vị đại biểu,các vị khách quý, đặc biệt là tuổi trẻ Thanh niên Hồ Chí Minh sức khỏe, hạnh phúc, luôn năng động, sáng tạo, xung kích trên mọi lĩnh vực
Thưa các đồng chí và các bạn,
Công nghệ thông tin (CNTT) là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập và hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục. Phát triển nguồn nhân lực CNTT và ứng dụng CNTT trong giáo dục là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định sự phát triển CNTT của đất nước. Ứng dụng CNTT trong hoạt động NCKH sinh viên cũng không nằm ngoài xu thế đó
Vậy, ứng dụng như thế nào?
Một là, ứng dụng CNTT trong công tác quản lý, trao đổi
Số lượng sinh viên và số lượng công trình tham gia cuộc thi sinh viên nghiên cứu khoa học ngày càng tăng. Việc ứng dụng CNTT trong việc quản lý là điều tất yếu. Song, thực tế hiện nay công tác quản lý còn một số hạn chế. Chưa có kênh thông tin riêng để thống kê danh mục đề tài qua các năm để sinh viên có thể theo dõi, nắm bắt tránh sự trùng lặp giữa các đề tài hoặc phạm vi nghiên cứu. Do đó, để có thể hạn chế những vấn đề này cần phải xây dựng cơ sở dữ liệu các công trình nghiên cứu khoa học sinh viên qua các năm, tích hợp chúng vào trang web nội bộ của các trường đại học, học viện để sinh viên có thể dễ dàng theo dõi, lựa chọn các vấn đề nghiên cứu phù hợp với khả năng của cá nhân, cũng như so sánh, đối chiếu đề tài giữa các trường.
Khía cạnh thứ hai ở đây là trao đổi. Hiện nay có nhiều cách thức khác nhau đề trao đổi thông tin song một cách thức nhanh, dễ dàng sử dụng lại không được chú ý đến đó là sử dụng thư điện tử (email). Có thể đưa ra một ví dụ: Đối với các công trình đã được xét gửi đi tham dự Cấp Bộ thì thời gian chỉnh sửa và thời gian phải nộp cho Phòng Quản lý học thường trùng với thời gian nghỉ hè của các sinh viên. Do đó, sau khi chỉnh sửa xong, các sinh viên có công trình dự thi cấp Bộ phải lên trường sớm để nộp. Nếu như, sử dụng thư điện tử để trao đổi sẽ tiết kiệm được thời gian và công sức cho cả cán bộ quản lý và sinh viên.
Trong phạm vi của các trường, học viện, nên chăng, từng bước thúc đẩy việc thông báo, trao đổi các thông tin về cuộc thi sinh viên nghiên cứu khoa học qua email (giai đoạn đầu đối với các sinh viên có đăng ký email), đăng ký, gửi phiếu đăng ký tham gia cuộc thi qua email …v.v. Như vậy, cán bộ Phòng quản lý chỉ cần một vài thao tác nhỏ có thể thống kê được số lượng các sinh viên đăng ký, sự trùng lặp (nếu có) giữa các đề tài  .v.v
Hai là, ứng dụng CNTT trong công tác tra cứu các công trình
Đối tượng tra cứu các công trình ở đây bao gồm cán bộ giáo viên và sinh viên. Với cách tra cứu phổ biến hiện nay thì một công trình tại một thời điểm chỉ có thể đáp ứng được yêu cầu của một đối tượng tra cứu. Khi đã xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu các công trình và ứng dụng chúng trong mạng LAN hoặc internet sẽ đáp ứng được nhiều yêu cầu tra cứu.
Nội dung tra cứu ở đây rất rộng tùy theo yêu cầu của đối tượng tra cứu bao gồm từ tên đề tài, nội dung, đến các thống kê kèm theo…v.v. Dưới góc độ sinh viên, thì việc tra cứu định hướng quá trình lấy tên đề tài, phạm vi nghiên cứu, thu thập nguồn tài liệu phong phú cũng như xây dựng cho sinh viên tiếp cận các phương pháp nghiên cứu khoa học qua các công trình nghiên cứu đã được các sinh viên làm. Với một đối tượng thông tin về các công trình thì việc số hóa các đề tài, xây dựng cơ sở dữ liệu không có gì là khó khăn và tốn kém.
Ba là, ứng dụng CNTT trong công tác tìm kiếm tài liệu, nghiên cứu thực hiện đề tài.
Nghiên cứu khoa học sinh viên đòi hỏi mỗi sinh viên phải có phương pháp, tư duy và kỹ năng tổng hợp thông tin. Do đó, nguồn thông tin ở đây không chỉ bó hẹp qua sách vở, giáo trình, qua các công trình nghiên cứu trước đó mà còn ở kho thông tin rộng lớn –internet. Để có thể tham gia nghiên cứu khoa học đòi hỏi các sinh viên phải trang bị cho mình những kỹ năng tìm kiếm, thu tập thông tin. Trong phạm vi này, tác giả tập trung vào kỹ năng khai thác, thu thập thông tin trên internet. Để nâng cao kỹ năng “mềm” này thì mỗi sinh viên cần:
Thứ nhất, biết và sử dụng thành thạo các công cụ tìm kiếm. Đây là một yêu cầu quan trọng, chìa khóa để mở “cánh cửa internet”. Các công cụ tìm kiếm mà tôi nhắc tới ở trên chính là Google.com , Bing.com ,vinaseek.com, xalo.vn …v.v. Thực chất, đây là kỹ năng đặt từ khóa hiệu quả. Tức là, với từ khóa này sẽ giúp bạn lấy được những thông tin cần thiết, gần với mục đích sử dụng của bạn. Chẳng hạn, muốn biết cách thức thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên khi mới bắt đầu, bạn có thể sử dụng từ khóa “cấu trúc đề tài nghiên cứu khoa học” bạn sẽ thấy rằng, rất nhiều các bạn sinh viên đang có thắc mắc giống bạn và rất nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu, tổng kết đưa cho bạn nhưng kinh nghiệm quý báu.
Thứ hai, cần phải trang bị vốn tiếng anh, ít nhất cũng phải có khả năng đọc hiểu tương đối nội dung. Hai trong số những ngôn ngữ được sử dụng phổ biến trên internet hiện nay là Tiếng anh và Tiếng trung. Do đó, tiếng anh là cần thiết để bạn có thể tiếp cận với nội dung cần tìm kiếm ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Thực tế hiện nay, các công ty, trang web đã phát triển các tiện ích dịch các trang web sang các thứ tiếng khác nhau. Song, chất lượng dịch ở mức tương đối. Sẽ hiểu quả hơn nếu bạn đọc trực tiếp với tài liệu gốc..v.v
Thứ ba, bản thân mỗi sinh viên hãy chủ động, tích cực trong việc trau dồi những kiến thức về internet và sử dụng internet. Kiến thức này có thể được tích lũy qua trao đổi kinh nghiệm, tham khảo các tài liệu báo chí hoặc ngay trong quá trình bạn sử dụng các công cụ tìm kiếm.
Song, để có thể ứng dụng CNTT trong hoạt động nghiên cứu khoa học sinh viên thì ngoài các điều kiện về cơ sở vật chất sẵn có (máy tính, đường truyền mạng) thì nên chăng các bộ phận chức năng có thể tham mưu với các cấp lãnh đạo tổ chức các đợt tập huấn, trang bị kiến thức về máy tính, tin học cho cán bộ, giảng viên đảm bảo sử dụng hiệu quả, tương xứng với các thiết bị đã được học viện trang bị.
Thay cho lời kết, tôi mong muốn các bạn sinh viên hãy bắt tay vào NCKH – nghiên cứu khoa học để khẳng định mình.
Xin cảm ơn các đồng chí đã lắng nghe.!

Nhận xét chung:
+ Hội nghị có ý nghĩa và tầm quan trọng lớn. Trong đó, quan trọng nhất là: 
Đổi tên thành: " Giải thưởng "Tài năng khoa học trẻ Việt Nam" bắt đầu áp dụng từ 2011
+ Chủ nhà tổ chức chưa tương xứng với tầm của Hội nghị


0 comments to "Tổng kết 20 năm giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học và 17 năm giải thưởng sáng tạo kỹ thuật Việt Nam - vifotec"

Post a Comment